Quy hoạch và mô hình phát triển đô thị vùng Đồng bằng sông Cửu Long
Hệ thống đô thị Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) sẽ được xây dựng theo hướng phân bố hợp lý tại các vùng đô thị, dọc theo các hành lang phát triển chính của vùng; mô hình đô thị sinh thái, nén, thích ứng biến đổi khí hậu, đây là một trong số những nội dung được đề cập tại Quyết định 287/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch Vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 vừa được cố Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành ký. Ngoài ra, đây cũng là Quy hoạch vùng đầu tiên được duyệt theo Luật Quy hoạch.
Phát triển đô thị thích ứng biến đổi khí hậu
Hiện nay, vùng ĐBSCL có 174 đô thị gồm: 01 đô thị trực thuộc Trung ương, 02 đô thị loại I thuộc tỉnh, 12 đô thị loại II, 09 đô thị loại III, 23 đô thị loại IV và 127 đô thị loại V. Tỷ lệ đô thị hóa toàn vùng đạt 31,16%, tăng 4,6% so với năm 2015. Khu vực đô thị có sự tăng trưởng cả về số lượng và chất lượng. Bộ mặt đô thị ngày càng khang trang, hiện đại và có bản sắc.
ĐBSCL là vùng đầu tiên được duyệt theo Luật Quy hoạch. Báo Xây dựng.
Theo quy hoạch, phạm vi, ranh giới lập quy hoạch gồm toàn bộ ranh giới hành chính của thành phố Cần Thơ và 12 tỉnh: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, An Giang, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau; vùng biển ven bờ của các tỉnh: Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang.
Quy hoạch đề ra mục tiêu phát triển vùng ĐBSCL đến năm 2030 trở thành trung tâm kinh tế nông nghiệp bền vững, năng động và hiệu quả cao của quốc gia, khu vực và thế giới trên cơ sở phát triển hệ thống các trung tâm đầu mối về nông nghiệp, các hành lang kinh tế và các đô thị động lực tập trung các dịch vụ và công nghiệp đa dạng với hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Vùng ĐBSCL chú trọng phát triển kinh tế biển; kinh tế du lịch; tăng cường kết nối nội vùng, liên vùng, trong nước và quốc tế; chú trọng phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tạo dựng môi trường sống bền vững, chất lượng sống tốt cho người dân gắn với bảo tồn các tài nguyên, hệ sinh thái; duy trì và tôn tạo bản sắc văn hóa độc đáo, đa dạng của các dân tộc; bảo đảm ổn định chính trị, quốc phòng và an ninh.
Hệ thống đô thị được xây dựng theo hướng phân bố hợp lý tại các vùng đô thị dọc theo các hành lang phát triển chính của vùng. Trong đó, phát triển hệ thống đô thị loại I, loại II theo mô hình đô thị sinh thái, nén, tập trung phù hợp với Quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 Cụ thể:
- Thành phố Cần Thơ là đô thị loại I trực thuộc trung ương, là trung tâm hành chính, dịch vụ, thương mại, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, văn hóa, du lịch, công nghiệp chế biến của toàn vùng; cung ứng các dịch vụ y tế, giáo dục có chất lượng cao có khả năng cạnh tranh ở cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế.
- Thành phố Mỹ Tho - Tiền Giang có vai trò là một trong những trung tâm dịch vụ thương mại, logistic, du lịch tại khu vực phía Bắc sông Tiền; đô thị cửa ngõ giữa vùng thành phố Hồ Chí Minh và vùng ĐBSCL; trung tâm nông nghiệp công nghệ cao về cây ăn trái và trung tâm dịch vụ du lịch miệt vườn.
- Thành phố Tân An - Long An có vai trò là trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ phía Đông Bắc của vùng ĐBSCL, đô thị cửa ngõ giữa vùng thành phố Hồ Chí Minh và vùng ĐBSCL.
- Thành phố Long Xuyên - An Giang có vai trò là một trong những trung tâm thương mại dịch vụ phía Tây Bắc của vùng ĐBSCL; là trung tâm chuyển giao công nghệ về nông nghiệp công nghệ cao, đặc biệt là lúa gạo và thủy sản nước ngọt.
- Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang có vai trò là trung tâm kinh tế biển, thương mại dịch vụ tại khu vực ven biển phía Tây của vùng ĐBSCL; là trung tâm nuôi trồng, đánh bắt và xuất khẩu thủy hải sản; trung tâm công nghiệp chế biến nông - thủy sản.
- Thành phố Cà Mau có vai trò là trung tâm tiểu vùng ven biển tại khu vực bán đảo Cà Mau; là trung tâm năng lượng và dịch vụ dầu khí quốc gia, trung tâm dịch vụ du lịch sinh thái, trung tâm chế biến thủy sản của vùng.
- Thành phố Sóc Trăng có vai trò là trung tâm kinh tế của tiểu vùng ven biển Đông; là trung tâm nuôi trồng, đánh bắt và xuất khẩu thủy hải sản; trung tâm công nghiệp chế biến nông - thủy sản, công nghiệp năng lượng sạch; trung tâm du lịch văn hóa lịch sử.
Cùng với đó, quy hoạch xây dựng và phát triển đô thị đảo bền vững, hài hòa giữa phát triển kinh tế với bảo tồn di tích lịch sử, văn hóa, bảo tồn đa dạng sinh học biển, hải đảo và bảo đảm quốc phòng, an ninh; từng bước xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng, hướng tới hình thành các trung tâm dịch vụ, du lịch biển mang tầm quốc tế tại Phú Quốc.
Đến năm 2050, ĐBSCL trở thành vùng có trình độ phát triển khá so với cả nước; là nơi đáng sống đối với người dân, là điểm đến hấp dẫn đối với du khách và nhà đầu tư; các cộng đồng dân cư thịnh vượng và năng động; các hệ sinh thái đất ngập nước quan trọng được bảo tồn và phát triển; khai thác, phát huy có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và bản sắc văn hóa phong phú, đa dạng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Hệ thống đô thị được phân bổ hợp lý và phát triển bền vững. Hệ thống giao thông được phát triển đồng bộ, kết nối nội vùng, liên vùng. Hạ tầng thủy lợi, thông tin và truyền thông, cấp điện, cấp, thoát nước được xây dựng đồng bộ, hiện đại đáp ứng yêu cầu chuyển đổi sản xuất nông nghiệp, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo đảm an toàn trước thiên tai…
Đề xuất hình thành 3 hình thái phát triển đô thị và nông thôn
Trong định hướng phát triển không gian vùng ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH), nước biển dâng (NBD) (nghiên cứu của Viện Quy hoạch Xây dựng miền Nam và tư vấn RUA) đề xuất hình thành 3 hình thái phát triển đô thị và nông thôn dựa trên 3 phân vùng chịu tác động ngập, xâm mặn theo kịch bản BĐKH - NBD đến năm 2050 và tác động thượng nguồn sông Mekong, cụ thể:
Kiến tạo động lực để phát triển nhanh và bền vững vùng ĐBSCL. Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
- Thứ nhất, vùng ngập sâu (Đồng Tháp Mười và một phần Tứ giác Long Xuyên), chiếm 15% diện tích tự nhiên vùng ĐBSCL, trở thành vùng quản lý ngập và trữ nước ngọt; tạo điều kiện các khu vực ngập nước theo mùa, nhằm chủ động về nguồn nước cho vùng, hình thành một số khu vực giữ nước thường xuyên gắn với sự chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản nước ngọt, trồng tràm; hạn chế phát triển mở rộng đô thị. Dự báo đến năm 2030, 8% dân số đô thị toàn vùng phân bố tại vùng ngập sâu.
- Thứ hai, vùng giữa đồng bằng (nước ngọt phù sa), chiếm 38% diện tích tự nhiên vùng ĐBSCL, là vùng sản xuất nông nghiệp đa dạng: lúa, trái cây, hoa màu; vùng thuận lợi, khuyến khích phát triển đô thị nhưng là hình thái phát triển đô thị nén, hạn chế phát triển dàn trải, bảo vệ đất nông nghiệp màu mỡ. Dự báo đến năm 2030, 56% dân số đô thị toàn vùng phân bố tại vùng giữa đồng bằng.
- Thứ ba, vùng ven biển (ven biển Đông, ven biển Tây và bán đảo Cà Mau), chiếm 47% diện tích tự nhiên vùng ĐBSCL, là vùng có sự chuyển đổi, mở rộng nuôi trồng thủy sản nước lợ theo hướng sinh thái trong điều kiện xâm mặn gia tăng, gắn với trồng rừng ngập mặn ven biển, khôi phục các hệ sinh thái rừng ở bán đảo Cà Mau, quản lý dải bờ biển; đây là vùng phát triển kinh tế biển năng động nhưng không mở rộng đô thị quá nhiều, giảm các rủi ro do thiên tai do BĐKH - NBD. Dự báo đến năm 2030, 36% dân số đô thị toàn vùng phân bố tại vùng ven biển.
Trong một vùng kinh tế sản xuất hàng hóa nông nghiệp chuyên môn hóa và bảo vệ sinh thái là trọng tâm, sáu tiểu vùng sinh thái nông nghiệp (Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, dọc sông Tiền sông Hậu, Tây sông Hậu, bán đảo Cà Mau, ven biển Đông) cũng là các phân vùng phát triển kinh tế gắn với đặc thù sinh thái.
Vì vậy, phát triển các đô thị trung tâm tiểu vùng sinh thái nông nghiệp trong mạng lưới đô thị ĐBSCL có thể được xem là thích hợp hơn hai xu hướng: phát triển đô thị trung tâm toàn vùng duy nhất (tập trung tối đa nguồn lực đầu tư theo chiến lược quốc gia, khó đáp ứng được tính đa dạng theo các tiểu vùng và xu hướng phân tán, phi tầng bậc của vùng nông nghiệp) hoặc vùng có 13 đô thị trung tâm theo địa bàn tỉnh/thành (phân tán theo ranh giới quản lý hành chính, phân tán nguồn lực và thiếu liên kết vùng theo các tiểu vùng sinh thái nông nghiệp).
Tất cả các thách thức nêu trên cho thấy tầm quan trọng trong việc xác định mô hình phát triển vùng ĐBSCL theo hướng bền vững, thích ứng BĐKH và sự cần thiết của quy hoạch phát triển vùng ĐBSCL tích hợp đa ngành trên quan điểm, tiếp cận mới nhằm hướng dẫn quá trình chuyển đổi, xác định các chiến lược phát triển vùng trong một tầm nhìn chung, kiến nghị đổi mới các chính sách phát triển và thiết lập cơ chế quản lý, điều phối phát triển vùng.
Bốn nhóm nhiệm vụ trọng tâm triển khai quy hoạch ĐBSCL
Về Kế hoạch thực hiện quy hoạch, ông Nguyễn Chí Dũng - Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư cho biết, ngay sau khi quy hoạch được phê duyệt, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với các bộ, ngành, địa phương xây dựng Kế hoạch thực hiện quy hoạch, bao gồm 04 nhóm nhiệm vụ trọng tâm, cụ thể:
- Một là, phát triển kinh tế nông nghiệp giá trị cao, hiệu quả cao, chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, trong đó tập trung phát triển các trung tâm đầu mối, xây dựng vùng nguyên liệu tập trung, công nghệ cao, đảm bảo an toàn thực phẩm.
- Hai là, phát triển khu vực đô thị - công nghiệp động lực, trong đó tập trung đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông kết nối liên vùng, liên tỉnh, hệ thống logistics, hạ tầng kỹ thuật của khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp; các công trình nguồn và lưới điện, phát huy có hiệu quả tiềm năng về dầu khí và năng lượng tái tạo.
- Ba là, xây dựng môi trường sống tốt, điểm đến hấp dẫn: Xây dựng và triển khai Chương trình phát triển các điểm nguồn nước ngọt dự trữ chiến lược trên toàn vùng; nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ giáo dục – đào tạo, y tế, du lịch có khả năng cạnh tranh ở cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế tại thành phố Cần Thơ; Chương trình phát triển thương hiệu du lịch ĐBSCL tầm cỡ quốc tế gắn với bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa - lịch sử; bảo tồn các hệ sinh thái đất ngập nước quan trọng, đa dạng sinh học biển, hải đảo.
- Bốn là, quản lý, điều phối thực hiện quy hoạch vùng: Hội đồng điều phối vùng đồng bằng sông Cửu Long giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo điều phối, đôn đốc, các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện thống nhất các nhiệm vụ, chương trình, dự án, đề án theo Quy hoạch.